Từ điển
Dịch văn bản
 
Tất cả từ điển
Tra từ
Hỏi đáp nhanh
 
 
 
Kết quả
Vietgle Tra từ
Chuyên ngành Anh - Việt
Object Technologies
|
Tin học
Các công nghệ Đối tượng Kỹ thuật hướng đối tượng đưa quá trình phát triển phần mềm vượt ra khỏi kiểu lập trình thủ tục trong quá khứ đến thế giới lập trình kiểu có thể dùng lại được, làm đơn giản hóa sự phát triển của các ứng dụng. Các hệ điều hành và trình ứng dụng được tạo ra gồm nhiều đơn thể (module) có thể liên kết lại với nhau để hình thành một chương trình đảm nhận một chức năng nào đó. Bất cứ đơn thể nào cũng có thể được thay thế hay cập nhật bất cứ lúc nào mà không cần phải cập nhật toàn bộ cho chương trình. Các đơn thể có thể được đặt ở nhiều vị trí khác nhau, điều nầy thúc đẩy sự phát triển các ứng dụng phân tán và Internet. Trình duyệt Web có thể được xem như một vật chứa, trong đó người dùng có thể đưa thêm các đối tượng cung cấp các chức năng mở rộng. Ví dụ, người dùng có thể nối với Web server và tải về một đối tượng dưới hình thức của một Java applet (đoản trình Java, chạy ký sinh trên văn bản Web) hay một ActiveX component (thành phần kiểu đối tượng linh hoạt) để cải tiến các đặc tính của bản thân trình duyệt Web hay cung cấp một số tiện ích hoạt động nội tại trong trình duyệt Web, như là đoạn chương trình tính toán công nợ từ một Website về bất động sản nào đó. Xin xem mục “Component Software Technology” và “Distributed Object Computing” để có thêm thông tin. Toàn bộ Hệ điều hành Windows NT được xây dựng dựa trên kiến trúc kiểu đối tượng. Các thiết bị như máy in và các đối tượng ngoại vi khác đều gọi là các đối tượng, cũng như các tiến trình và tiểu trình, phân đoạn bộ nhớ chia xẻ, quyền truy cập. Một đối tượng tự bản thân nó có thể là một chương trình, hay là một gói dữ liệu với các chức năng kèm theo. Máy ATM (automated teller machine: máy rút tiền tự động) có lẽ là ví dụ tốt nhất về ý nghĩa “đối tượng” trong thế giới thực. Bạn không cần quan tâm đến các hoạt động bên trong của máy. Bạn yêu cầu tiền mặt và máy sẽ phát cho bạn. Chiếc máy cũng có các giao tiếp bên ngoài để bạn yêu cầu việc gì đó như tiền mặt hay bảng cân đối tài khoản chẳng hạn. Các đối tượng về chương trình hay cơ sở dữ liệu cũng giống như vậy. Chúng giống như những hộp chứa các mã hay dữ liệu bên trong để thực hiện hành động nào đó khi các giao tiếp bên ngoài được tiến hành. Các giao tiếp bên ngoài gồm có các method (phương thức), được so sánh như các nút bấm trên máy ATM để điều khiển nó. Ví dụ, một đối tượng có thể trình bày cột dữ liệu đã được sắp xếp theo một cột được chọn bởi người sử dụng. Một cửa sổ trình bày danh sách các tập tin trên giao diện đồ họa của hệ điều hành (như Windows 95), cũng là một ví dụ về đối tượng. Đó là một cái hộp chứa dữ liệu (danh sách file), có các điều khiển để thao tác với chúng. Bạn có thể click vào một nút phía trên bất kỳ cột nào để sắp xếp lại dữ liệu cho cột đó. Các đối tượng được liên kết với nhau để tạo nên các chương trình hoàn chỉnh. Các đối tượng tương tác với nhau bằng cách trao đổi các thông điệp. Đối tượng nầy sẽ hoạt động như server, còn đối tượng kia sẽ hoạt động như client. Chúng có thể thay đổi vai trò bất cứ lúc nào. Nếu một chương trình cần nâng cấp, thì chỉ những đối tượng cần nâng cấp phải thay thế mà thôi. Các đối tượng được phân loại thành các lớp (class) có thứ bậc để xác định các kiểu khác nhau của object. Lớp cha (parent class) có những đặc tính có thể truyền lại cho lớp con (subclass) cùng kiểu đối tượng. Điều nầy gọi là tính kế thừa của lớp (class inheritance). Tính kế thừa nầy có thể chia thành khối nếu cần thiết. Trong một cơ sở dữ liệu, lớp “người” có thể chia thành lớp con như lớp “nam” và lớp “nữ”. Mỗi lớp con thừa hưởng các đặc tính tổng quát từ lớp cha, song song đó vẫn có các đặc tính đặc thù của riêng nó. Nếu chúng ta xem chiếc máy ATM tại ngân hàng của bạn là một lớp cha, thì các máy nhỏ hơn sử dụng thẻ tín dụng để thanh toán tại các siêu thị được xem là lớp con. Chúng được thiết kế cùng một số đặc tính với chiếc máy lớn hơn là ATM, nhưng lại không có các đặc tính như khả năng kiểm tra cân đối tài khoản của bạn. Các đối tượng giao tiếp với nhau bằng cách gửi các thông điệp hay thiết lập các liên kết hướng kết nối. Một thông điệp thường là một yêu cầu đối tượng nào đó làm việc gì. Trong môi trường mạng máy tính, các đối tượng có thể nằm trên nhiều máy vi tính khác nhau, và chúng “nói chuyện” với nhau thông qua các giao thức mạng. Một đối tượng ORB (object request broker) là một kiểu bus truyền thông điệp giúp các đối tượng định vị lẫn nhau để thiết lập các liên lạc. Xin xem “ORB (Object Request Broker)” để biết thêm thông tin. Từ mục liên quan ActiveX; Client/Server Computing; COM (Component Object Model); Component Software Technology; Compound Documents; CORBA (Common Object Request Broker Architecture); DCOM (Distributed Component Object Model); Distributed Object Computing; Java; Multitiered Architectures; OLE (Object Linking and Embedding); OLE DB; OMA (Object Management Architecture); ORB (Object Request Briker); and UNO (universal Networked Object) Thông tin trên internet OMG (Object Management Group) http://www.omg.org Object Database Management Group http://www.odmg.org W3C’s Object page http://www.w3.org/pub/WWW/OOP Object Magazine Online http://www.sigs.com/omo